Thực đơn
Armia Krajowa Quan hệBị ảnh hưởng bởi Chủ nghĩa bài Do Thái, lực lượng này không chấp nhận kết nạp người Do Thái làm thành viên. Tuy nhiên, các hồ sơ xác nhận rằng có nhiều người Do Thái là thành viên của Quân đội này như[1] Julian Aleksandrowicz,[2] Stanisław "Shlomo" Aronson,[3] Alicja Gołod-Gołębiowska (pl),[4] Leon Kopelman,[5] Marceli Handelsman,[6] Jerzy Makowiecki (pl)[6] và Ludwik Widerszal (pl)[6] (3 người còn lại là chỉ huy cấp cao),[6] trong khi Ignacy Schwarzbart và Szmul Zygielbojm, là những lãnh đạo cao cấp của chính phủ lưu vong Ba Lan[7]. Thế nhưng không có đại diện Do Thái nào sau khi kết thúc chiến tranh.
Đã có báo cáo về các cá nhân hoặc nhóm lính thuộc quân đội này có hành vi bạo hành chống lại người Do Thái, nhưng quy mô của hành vi như vậy vẫn là điều bị tranh cãi. Thái độ của các thành viên trong quân đội này đối với người Do Thái khá đa dạng, tùy thuộc vào mỗi đơn vị.
Mối quan hệ với người Nga Liên Xô nói chung là khá căng thẳng, bất chấp cả hai bên là Đồng minh của nhau do quá khứ thù hận với các cuộc chiến tranh liên tục trong hàng trăm năm từ thời Đế quốc Nga và Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, đặc biệt là do Nga đã đóng vai trò trong việc Phân chia Ba Lan và khiến Ba Lan vong quốc suốt hơn trăm năm trước, cùng với thêm việc Liên Xô đồng lõa với Đức xâm lược Ba Lan vào năm 1939 đã làm vấn đề thêm căng thẳng. Ba Lan cáo buộc Liên Xô tìm cách gây khó khăn cho các lực lượng kháng chiến như Armia Krajowa trong cuộc chiến. Mối quan hệ vốn không êm đẹp này lại càng gặp khó khăn sau khi Liên Xô tiến quân vào Ba Lan năm 1945. Trong cuộc nổi dậy Warszawa 1944, sự thất bại của Ba Lan dẫn đến hậu quả tàn khốc là cả thành phố Warszawa bị quân Đức phá trụi, và phía Ba Lan buộc tội Liên Xô đã ngừng tiến công nên quân Đức mới có cơ hội quay lại tấn công họ[8]. Vì vậy mà có rất ít sự cộng tác mà chủ yếu là đụng độ ngầm giữa hai bên.
Mối quan hệ với người Ukraina nói chung là khá phức tạp do những nghi kỵ dai dẳng trong lịch sử hai nước. Mặc dù đã từng là đồng minh với các lực lượng dân tộc Chủ nghĩa Ucraina vào năm 1920, nhưng việc những người Ukraina ủng hộ Hồng Quân tấn công Ba Lan năm 1939, và vai trò đầy rối rắm của hai thủ lĩnh phong trào độc lập Ukraina là Stepan Bandera và Roman Shukhevych, những thủ lĩnh của lực lượng Quân đội Kháng chiến Ukraina (UPA) đã gây ra rất nhiều khó khăn cho quân nổi dậy Ba Lan. Trong khi người Ba Lan nhất quyết đánh đuổi phát xít Đức và cả Liên Xô ra khỏi đất nước, thì người Ukraina lại chỉ mong đánh đuổi người Nga, và không mặn mà trước việc chống lại người Đức.
Sự hợp tác giữa hai bên bị ảnh hưởng do tư tưởng đòi lập quốc Ukraina, và nhánh cực đoan của lực lượng UPA, do Bandera lãnh đạo, đã tiến hành nhiều chiến dịch diệt chủng người Ba Lan và người Do Thái. Một trong những sự việc như thế đã xảy ra vào năm 1943-44, được biết tới là vụ thảm sát Volhynia, mà gần 30.000-100.000 người Ba Lan bị tàn sát. Chính điều đó khiến sự thù địch gia tăng, mà về sau này, cũng vẫn khó tan trong lòng người dân Ba Lan.
Ngược lại, các lực lượng Ba Lan cũng tấn công, ám sát các thủ lĩnh du kích của Ucraina, và tiến hành các chiến dịch tấn công các làng quê Ucraina. Theo Grzegorz Motyka, các hành động của Ba Lan đã gây ra 10.000 - 15.000 cái chết của người Ucraina trong các năm 1943-47, bao gồm 8.000-10.000 trong lãnh thổ của Ba Lan ngày nay.
Sự hợp tác giữa người Litva với Ba Lan là một câu hỏi cũng khó trả lời, do yếu tố quá khứ. Cuộc nổi dậy Żeligowski vào năm 1920 ở Vilnius, vốn là ngòi nổ cho cuộc Chiến tranh Ba Lan-Litva sau đó, và sự kiện sáp nhập Vilnius, vốn được xem là thủ đô thiêng liêng của Litva, khiến cho hai bên chỉ thực sự cộng tác với nhau vào nửa cuối cuộc chiến, từ 1944-45, bất chấp cả hai có kẻ thù chung là Đức và Liên Xô.
Do yếu tố thù địch quá khứ, nhiều người Litva đã chọn cộng tác với Đức Quốc xã, và lực lượng cảnh sát mật Litva đã tàn sát rất nhiều người Ba Lan từ 1941, nổi tiếng nhất là vụ thảm sát Ponary. Nhiều lực lượng thuộc Quân Nhà Ba Lan đã trả đũa bằng các cuộc đột kích và tấn công quân Litva, gây tổn thất nặng nề.
Vào 1944, lực lượng Quân đội Nhà Ba Lan ở Vilnius do tướng Aleksander Krzyżanowski chỉ huy đã đề nghị hợp tác với thủ lĩnh kháng chiến nhưng cũng đầy xảo quyệt người Litva, Povilas Plechavičius, để cùng nhau chống Đức và Nga. Tuy nhiên Povilas từ chối, đòi Ba Lan rút khỏi Vilnius hoặc phải tham chiến chống Nga. Povilas thực ra là chỉ huy của lực lượng phòng thủ lãnh thổ Litva vốn thân Đức, nên việc này được coi là bất khả thi. Thế nhưng, sau khi Quân đội Nhà Ba Lan mật phục và tiêu diệt một tiểu đoàn quân Litva ở trận Murowana Oszmianka, hai bên đã lao vào giao chiến và tàn sát lẫn nhau. Các nhà chức trách Đức đã bí mật để hai bên tự diệt nhau trong khi Nga chộp lấy cơ hội và kéo tới tái chiếm Litva.
Bia đá Gęsiówka khắc công ơn của người Do Thái bằng tiếng Ba Lan, Hebrew và Anh.Thực đơn
Armia Krajowa Quan hệLiên quan
Arminia Bielefeld Armata Armie Hammer Armin van Buuren Aria (manga) Armillaria solidipes Armani Arminius Armand Traoré Armavir, NgaTài liệu tham khảo
WikiPedia: Armia Krajowa http://www.historynet.com/warsaw-rising-hope-and-b... http://www.citinet.net/ak/pages/polska_40.html http://www.webcitation.org/6GrFugILn?url=http://ww... http://www.1944.pl/historia/powstancze-biogramy/Al... http://www.1944.pl/historia/powstancze-biogramy/Le... http://www.1944.pl/historia/powstancze-biogramy/St... https://books.google.com/books?id=P7ttAAAAMAAJ https://books.google.com/books?id=RhYtAQAAIAAJ https://books.google.com/books?id=ZphWriAuuJYC&pg=...